かぐや 姫

CÔNG CHÚA KAGUYA ( NÀNG CÔNG CHÚA ỐNG TRE)

Từ vựng:
姫 ( ひめ): công chúa
翁 ( おきな): ông lão ( từ cổ)
根本 (ねもと): gốc, rễ, nguồn gốc
不思議(ふしぎ): kì lạ, ảo diệu, kì quái
光る(ひかる): phát sáng, tỏa sáng
輝く(かがやく): sáng chói, tỏa sáng lấp lánh
~寸 ( ~ すん): đơn vị đo lường của người Nhật ( 1 sun ~ 3,03 cm)
可愛い ( かわいい): dễ thương
授かる ( さずかる):được ban cho, được nhận.
育てる(そだてる) : nuôi dưỡng, nuôi dạy
育つ ( そだつ): lớn lên, khôn lớn, phát triển
大切 ( たいせつ): quan trọng
黄金 ( こがね): tiền vàng
ぎっしり ( と 詰まる) ( ぎっしり と つまる): lèn chặt, đầy chặt, đầy ắp
たちまち: đột nhiên, ngay lập tức
わずか: vỏn vẹn
すくすく: nhanh chóng, mau lẹ , lớn vùn vụt, lớn nhanh như thổi.
穏やか( おだやか): yên ả, điềm đạm, ôn hòa, thanh thản
夜空( よぞら): bầu trời đêm
はっきり: rõ ràng
包む ( つつむ): bao bọc, trùm, giấu giếm, gói vào.
淡い ( あわい): nhạt, nhẹ, yếu, mỏng manh
光( ひかり): ánh sáng
ほうって置く(ほうっておく): phớt lờ, thờ ơ, hờ hững , không chú ý
王子(おうじ):Hoàng tử, vương tử
身分(みぶん):xuất thân
婿(むこ): Con rể
それぞれ: Mỗi
申し分ない ( もうしぶんない): Tuyệt vời, không có gì chê trách
立派 ( りっぱ): Tuyệt vời, tuyệt hảo
珍しい ( めずらしい): Quý hiếm, hiếm có
宝物 ( ほうもつ): Bảo vật
天竺 ( てんじく): Nước thiên trúc ( インド)
仏の御石の鉢(ほとけのみいしのはち):Bát đá của Phật tổ
蓬莱山 ( ほうらいさん): Núi bồng lai
根っこ ( ねっこ): gốc cây, rễ cây
くき: cọng, cuống, nhánh cây
燕 ( つばめ): con chim én, chim nhạn
唐土(もろこし): Trung Hoa
皮衣(かわごろも):Áo choàng lông
思わず (おもわず): Bất giác, bất chợt
見張る(みはる): Dương to mắt nhìn
大和の国 (やまとのくに): Nước Nhật Bản cổ xuất phát rừ vùng Nara
山寺 (やまでら): Ngôi chùa trên núi
偽物 (にせもの): Đồ giả, hàng giả
差し出す(さしだす): Đưa ra
磨く(みがく): đánh bóng, đánh chải, mài, xát
見破る(みやぶる): Nhìn thấu, nhìn thông suốt ( hàng giả bị phát hiện)
職人 ( しょくにん): Thợ thủ công, nghệ nhân
集める(あつめる): Sưu tầm, thu thập, triệu tập, tập trung lại một chỗ
見せかける ( みせかける): Giả vờ
苦労する( くろうする):lao tâm khổ tứ, làm hết sức, cố gắng,  khó khăn gian khổ
商人( しょうにん): Lái buôn
騙す(だます): lừa lọc, lừa dối, nói gạt, lừa gạt
沈む(しずむ): chìm, đắm
航海 ( こうかい): chuyến đi biển
嵐 ( あらし): cơn giông, cơn bão 
V-ます + そうになる: Suýt ( xảy ra sự việc ngoài tầm kiểm soát)
暴れる( あばれる): nổi giận, nổi xung
しずめる: làm nguôi ngoai, làm dịu đi, trấn tĩnh lại, làm giảm, đè nén
屋敷( やしき): lâu đài
のき: mái hiên
巣(す): tổ chim
帝(みかど)=天皇: Thiên hoàng
奪われた(うばわれる): làm say đắm
宮廷( きゅうてい): hoàng cung, cung đình
断る(ことわる):từ chối, không chấp nhận
無理矢理( むりやり): cưỡng chế, ép buộc
取り交わす( とりかわす): trao đổi
和歌( わか): một loại thơ của Nhật
人間( にんげん): nhân gian, phàm trần
力一杯 ( ちからいっぱい): toàn sức lực
大臣 ( だいじん): đại thần
駿河の国 (するがのくに): nước Suruga ( nay là tỉnh Shizuoka)
山頂 ( さんちょう): đỉnh núi
ーーーーーーーーーーーーーー

昔々、『竹とりのおきな』と呼ばれる、竹とりのおじいさんがいました。
 おじいさんの仕事は、山で取って来た竹でカゴやザルを作る事です。
 ある日の事、おじいさんが山へ行くと、一本の竹の根本がぼんやりと光り輝いてました。
「おや? 何と不思議な竹だろう」
 おじいさんは、その光る竹を切ってみました。
 すると竹の中には、大きさが三寸ほどの、ぽーっと光り輝く可愛くて小さな女の子が入っていたのです。

Ngày xửa ngày xưa, có một ông lão làm nghề đốn tre tên là "Taketori no okina".
Công việc của ông lão là làm giỏ và rổ bằng tre lấy về từ trên núi.
Một ngày nọ, ông lão đi lên núi thì thấy  trong gốc một cây tre tỏa ra ánh sáng lấp lánh chói mắt.
Bên trong ống tre có một  bé gái lớn tầm 3 sun đang tỏa sáng lấp lánh.

「光る女の子とは・・・。きっとこの子は、天からの授かり物に違いない」
 子どものいないおじいさんは、大喜びでその女の子を家に連れて帰りました。
 そして、おじいさんが連れて帰った女の子を見て、おばあさんも大喜びです。
「まあ、まあ。なんて可愛い女の子でしょう。おじいさんの言う通り、この子は天からの授かり物に違いありませんわ」
 おじいさんとおばあさんは、その女の子を自分の子どもとして大切に育てる事にしました。

"Một bé gái tỏa sáng.... bé gái này chắc chắc là ông trời ban cho ta"
Ông lão không có con cái nên vô cùng hạnh phúc đưa cô bé về nhà. Nhìn thấy ông lão mang cô bé về nhà, bà lão cũng vô cùng hạnh phúc:
" Này, này, con bé đáng yêu dường này, đúng như lời ông nói, chắc chắc đó chính là ông trời ban cho chúng ta."
Ông bà lão nuôi dưỡng bé gái, coi trọng như con của chính mình.

 女の子が家にやって来た次の日から、不思議な事におじいさんが竹を取りに行くと、竹の中に黄金がぎっしりつまっている事が何度もあったのです。
 おかげでおじいさんの家は、たちまち大金持ちになりました。
 また不思議な事に、あの小さかった女の子はわずか三ヶ月ほどの間にすくすくと育って、それはそれは美しい娘になったのです。

Từ ngày đưa cô bé về nhà thì thường xuyên có chuyện kỳ lạ xảy ra: khi ông lão lên rừng lấy tre, bên trong thân cây tre lại chứa đầy ắp vàng. Nhờ vậy gia đình ông lão đột nhiên trở lên giàu có.
Vẫn còn một chuyện kì lạ nữa là bé gái nhỏ xíu chỉ vỏn vẹn trong 3 tháng bỗng lớn nhanh như thổi trở thành một cô gái xinh đẹp.
 
大きくなった娘は、たいへん うつくしく なりました。そしてどんなに暗いところにいても夜空の月がはっきりと見えるように、体からあわい光を発していました。
 そこでその娘は、『あわくゆらめく様に光り輝くお姫さま』と言う意味の『かぐや姫』と名付けられたのです。

Cô gái lớn lên trở thành người vô cùng xinh đẹp. Hơn nữa, dù có ở chỗ tối như thế nào, để có thể thấy rõ ánh trăng, từ cơ thể cô gái phát ra ánh sáng nhẹ nhàng.
Vì vậy, cô gái được đặt tên là " công chúa kaguya" có nghĩa là " công chúa tỏa ra ánh sáng"

 その美しく不思議なかぐや姫を、世の男たちがほうってはおきません。
 多くの若者たちがおじいさんの家にやって来ては、かぐや姫をお嫁さんにしたいと言いました。
 そしてその多くの若者たちの中でも特に熱心だったのが、次の五人の王子たちです。
 彼らは名前を、
 石作皇子(いしつくりのみこ)。
 車持皇子(くらもちのみこ)。
 阿部御主人(あべのみうし)。
 大伴御行(おおとものみゆき)。
 石上麻呂(いそのかみのまろ)。
と、言いました。
 みんな身分がとても高く、そしてお金持ちです。

Công chúa Kaguya xinh đẹp và bí ẩn khiến cho tất cả đàn ông trên thế giới không thể không chú ý. Có rất nhiều chàng trai trẻ tới nhà ông lão nói rằng muốn cưới công chúa Kaguya làm vợ. Trong số rất nhiều chàng trai trẻ đó có 5 vị hoàng tử đặc biệt quyết tâm là: Ishitsukuri nomiko, Kuramochi nomiko, Abe nomiushi, Ootomono miyuki và Isonokaminomaro. Cả 5 người đều có xuất thân cao quý và rất giàu có.

「誰も、婿どのとしては申し分ないのだが」
 選びかねたおじいさんは、かぐや姫に相談をしました。
「五人のお方は、みな、それぞれに立派なお方たちじゃ。お前は、どのお方がいいのかね?」
 するとかぐや姫は、こう答えました。
「今からわたくしの言う、世にもめずらしい宝物を探して持って来たお方のところへ、お嫁に行きたいと思います。その宝物とは・・・」

" Dù là ai thì cũng đều tuyệt vời"
Ông lão khó có thể lựa chọn nên đã thảo luận cùng công chúa Kaguya
" trong 5 vị hoàng tử, mỗi người đều rất tuyệt vời, không thể biết ai là tốt nhất" : Công chúa Kaguya trả lời.
" Từ bây giờ, con muốn trở thành cô dâu của vị nào tìm kiếm và mang đến bảo vật quý hiếm trên thế giới. Những bảo vật đó là...."

 話を聞いたおじいさんは、五人の王子たちにかぐや姫の言葉を伝えました。
「かぐやは、こう申しております。
 石作皇子(いしつくりのみこ)どのには、天竺 にある《仏の御石の鉢》を。
 車持皇子(くらもちのみこ)どのには、東の海の蓬莱山にある玉の枝, 根っこが銀、くきが金、実が真珠で出来ている木の枝)を。
 阿部御主人(あべのみうし)どのには、もろこしにある《火ネズミの皮衣(火ネズミと呼ばれる伝説のネズミの皮で作った燃えない布)》を。
 大伴御行(おおとものみゆき)どのには、《竜の持っている玉》を。
石上麻呂(いそのかみのまろ)どのには、つばめが生むという《子安貝》を。
それぞれ、お持ちいただきたいと」
 それを聞いた五人の王子たちは、思わず目を見張りました。

Ông lão nghe xong liền chuyển lời của công chúa Kaguya đến 5 vị hoàng tử. Công chúa muốn mỗi vị hoàng tử hãy mang đến...
" Hoàng tử Ishitsukuri Nomiko hãy mang đến một cái Bát đá của Phật tổ ở nước Thiên Trúc. Hoàng tử Kuramochi Nomiko hãy mang đến một cành cây ở trên cây ngọc ở núi Bồng Lai ngoài biển Đông có rễ làm bằng bạc, có cành bằng vàng và quả là hạt ngọc trai.
Hoàng tử Abe Nomiushi hãy mang đến một cái áo choàng lông không thể cháy được làm từ da của loài chuột lửa trong truyền thuyết từ đất nước Trung Hoa.
Hoàng tử Otomo Nomiyuki hãy mang đến một viên ngọc Rồng
Hoàng tử Isonokami Nomaro hãy mang đến một vỏ ốc bình an mà con chim nhạn dùng làm bùa sinh sản."
Cả 5 vị hoàng tử sau khi nghe xong đều bất giác mở tròn mắt kinh ngạc.

「何という、難しい注文だ」
「どれも、簡単に手に入る品物ではないぞ」
 しかしそれらの宝物を持って行かないと、かぐや姫をお嫁にする事が出来ません。
 そこで五人の王子たちは、それらの宝物を探すために帰って行きました。

" Làm sao được, đều rất khó để tìm kiếm"
" Dù là cái nào thì cũng không phải là đồ vật dễ dàng có được"
Tuy nhiên, không lấy được những bảo vật đó thì không thể cưới công chúa Kaguya.
Do đó để tìm kiếm những bảo vật đó, 5 vị hoàng tử đã xin phép ra về.

まずは石作皇子(いしつくりのみこ)が、天竺に行って仏の御石の鉢を手に入れる事は無理だと思い、大和の国の山寺で手に入れた古い鉢をきれいにかざって、かぐや姫のところへ持って行きました。
「天竺へ行って、《仏の御石の鉢》を手に入れました」
石作皇子(いしつくりのみこ)が偽物の鉢を差し出すと、かぐや姫は布でその鉢をみがいて、
「《仏の御石の鉢》は、みがけばみがくほど光り輝く鉢です。これは、《仏の御石の鉢》ではありません」と、偽物である事を見破りました。

Đầu tiên là hoàng tử Ishitsukuri Nomiko, nghĩ rằng việc đến đất nước Thiên Trúc và lấy cái bát đá của Phật Tổ là điều không thể nên đã đi tìm một cái bát cổ lấy từ một ngôi chùa trên núi ở Yamato làm sạch và mang đến nhà công chúa Kaguya.
" Ta đã đến đất nước Thiên trúc và mang về chiếc bát đá của Phật Tổ"
Hoàng tử Ishitsukuri Nomiko đã đưa ra chiếc bát giả và công chúa Kaguya đã đánh bóng nó bằng một tấm vải.
" Bát đá của Phật tổ là cái bát càng đánh sẽ càng sáng bóng tỏa sáng lấp lánh. Đây không phải là bát đá của Phật tổ"
Việc mang đến món đồ giả của vị hoàng tử đã bị phát hiện.

 車持皇子(くらもちのみこ)も蓬莱山には行かず、たくさんの腕の良い職人を集めて見事な玉の枝を作らせました。
 そしていかにも、蓬莱山から帰って来たと見せかけて、
「苦労しましたが、蓬莱山から《玉の枝》を持ち帰りました」
と、言ったのです。
 偽物ですが見事な出来ばえに、かぐや姫も言葉をなくして見つめていると、そこへたくさんの男たちが現れました。
 彼らは、この玉の枝を作った職人たちです。
「車持皇子どの。《玉の枝》をお作りしたお金を、早く払ってください」
「こ、これ! こんなところで何を言う」
 玉の枝が偽物だとばれた車持皇子(くらもちのみこ)は、はずかしそうにかぐや姫の家から逃げて行きました。

Hoàng tử Kuramochi Nomiko cũng thay vì đến núi Bồng Lai đã cho tập trung những thợ thủ công tay nghề giỏi để làm ra cái cây bằng ngọc tuyệt đẹp. Sau đó, giả vờ như đã đến núi Bồng lai, hoàng tử nói: " Dù rất khó khăn gian khổ nhưng ta đã mang về cành cây Ngọc"
Dù là đồ giả nhưng lại rất đẹp. Công chúa Kaguya cũng không nói lời nào chăm chú nhìn và ở đó xuất hiện rất nhiều người đàn ông. Họ là những nghệ nhân dẫ làm ra cái cây đó.
" Ngài Kuramochi Nomiko, hãy nhanh chóng trả tiền làm cái cây bằng ngọc đó"
" đây...đây là... Ở chỗ như thế này, nói cái gì vậy"
Hoàng tử Kuramochi Nomiko đã đưa ra cái cây bằng ngọc giả xấu hổ chạy ra khỏi nhà công chúa Kaguya.

 阿部御主人(あべのみうし)も、もろこしには行かずに、もろこしからやって来た商人から高いお金で《火ネズミの裘(かわごろも)》を買いました。
「もろこし中を探し回って、やっと手に入れる事が出来ました」
 するとかぐや姫は、一目見て言いました。
「見事なかわごろもですが、本物なら火に入れても燃えないはずですよ」
「はい。さっそく、火に入れてみましょう」
 阿部御主人(あべのみうし)は自信たっぷりに火の中へ《火ネズミの裘》を入れましたが、偽物の裘は簡単に燃えてしまいました。
「もろこしの商人は、よくもわしをだましたな!」
 阿部御主人(あべのみうし)は、怒りながら帰って行きました。

Hoàng tử Abe Nomiushi cũng vậy, thay vì đi tới Trung Hoa đã mua chiếc áo lông chuột lửa với giá cao từ một lái buôn đến từ Trung Hoa.
" Ta đã tìm kiếm khắp đất nước Trung Hoa, cuối cùng cũng cũng mang về được đồ vật này."
Sau đó công chúa Kaguya xem qua chiếc áo lông và nói:
" Một chiếc áo lông tuyệt đẹp, nhưng nếu đây là đồ thật thì thì dù có cho vào lửa chắc chắn sẽ không cháy."
" Đúng thế, ngay bây giờ hãy thử cho vào lửa đi"
Hoàng tử Abe Nomiushi tràn đầy tự tin cho chiếc áo choàng lông chuột lửa vào trong đống lửa nhưng chiếc áo lông dễ dàng cháy bùng lên.  
" Tên thương nhân Trung Hoa đó đã lừa gạt ta"
Hoàng tử Abe Nomiushi tức giận bỏ về.

 四番目の大伴御行(おおとものみゆき)は、《竜の持っている玉》を手に入れようと竜を探して航海に出ました。
 ところが、ものすごいあらしに出会って、乗っている船が沈みそうになったのです。
 王子は、嵐に向かって祈りました。
「竜神さま。どうか、お助けください。わたしがあなたの玉を欲しがるから、あなたが怒って暴れておられるのなら、もう二度と玉が欲しいなどと申しません。どうかこの嵐を、おしずめください」
 するとすぐに嵐がやんで、王子は何とか都へ帰る事が出来ました。
 でも《竜の持っている玉》を手に入れる事が出来なかったので、それっきりかぐや姫のところへは現れませんでした。

Người thứ 4 là hoàng tử Otomono Miyuki để lấy được viên ngọc rồng đã ra biển tìm kiếm Rồng. Nhưng con thuyền lại gặp phải một cơn bão lớn suýt chút nữa bị nhấn chìm. Hoang tử hướng về phía cơn bão cầu nguyện:
" Rồng thần, xin hãy giúp ta. Nếu người trở lên tức giận, phẫn lộ vì ta muốn viên ngọc của người thì nếu có lần thứ 2 ta sẽ không bao giờ nói muốn có viên ngọc nữa. Xin hãy làm cho cơn giông tan biến đi"
Sau đó, cơn giông ngay lập tức tan biến, bằng cách nào đó, hoàng tử trở về kinh đô. Nhưng, không thể hoàn thành việc lấy viên ngọc Rồng nên từ đó trở đi Hoàng tử Otomono Miyuki cũng không xuất hiện ở nhà công chúa Kaguya nữa. 

 最後の石上麻呂(いそのかみのまろ)は、屋敷ののき先のつばめの巣の中に光り輝く固まりがあるのを見つけると、さっそくやぐらを組ませて、やぐらの上からつるしたカゴに乗ってつばめの巣に手を入れました。
「あったぞ。つばめの《子安貝》があったぞ。これでかぐや姫は、わしの妻だ」
 しかし、あまりのうれしさにカゴをゆらしてしまったので、カゴをつるしたひもがぷつんと切れてしまいました。
 高いところから地面に落ちた王子は、腰の骨を折る大けがです。
 しかも《子安貝》と思っていたのは、ただのつばめのふんだったのです。
 石上麻呂(いそのかみのまろ)はがっかりして、そのまま病気になってしまいました。
 こうして五人の王子たちは、誰一人、かぐや姫をお嫁にする事は出来ませんでした。

Cuối cùng là hoàng tử Isonokami nomaro phát hiện ra vật có vỏ ngoài lấp lánh bên trong tổ của con chim nhạn ở trước mái hiên ở cung điện và ngay lập tức đã cho lắp ráp một cái đài thật cao , sau đó trèo vào trong cái giỏ buộc ở bên trên cái đài đó và lấy được tổ của con chim nhạn.
" Được rồi, ta đã có vỏ ốc bình an của chim nhạn. Lần này, công chúa Kaguya chính là cô dâu của ta"
Tui nhiên, vì quá vui mừng nên chiếc giỏ trở lên rung lắc, dây buộc giỏ đứt phựt ra. Hoàng tử rơi từ trên cao xuống đất , xương hông bị gãy, bị thương rất nặng.
Hơn nữa, cứ nghĩ rằng đó là vỏ ốc bình an thế nhưng đó chỉ là con chim nhạn. Hoàng tử Tshinokami nomaro vô cùng thất vọng và bệnh tình không có gì thuyên giảm.
Như vậy, cả 5 vị hoàng tử, không một ai có thể lấy công chúa kaguya làm vợ. 

 さて、この話しがついに、帝の耳にも届きました。
 そしてかぐや姫の美しさに心を奪われた帝が、かぐや姫を宮廷に迎えると言ったのです。
 帝と言えば、この日本で一番偉いお方です。
 おじいさんとおばあさんは大喜びですが、かぐや姫は宮廷に行くのを断りました。
 帝の力を持ってすれば無理矢理にでもかぐや姫を宮廷に迎える事は可能でしたが、帝はとても心優しいお方だったので、無理にかぐや姫を迎えようとはせずに、かぐや姫とは和歌を取り交わす関係となりました。

Sau đó, câu chuyện đến tai của Thiên Hoàng. Thiên hoàng say đắm trước sắc đẹp của công chúa Kaguya và nói muốn đón công chúa vào cung. Nếu Thiên Hoàng đã nói như vậy thì chính là tối cao.
Ông bà lão vô cùng vui mừng nhưng công chúa Kagyya lại từ chối việc vào cung.
Mặc dù Thiên hoàng có thể dùng sức mạnh của mình ép buộc công chúa kaguya vào cung nhưng vì Thiên hoàng là người vô cùng nhân hậu, thay vì ép buộc đón công chúa kaguya vào cung, nhà vua và công chúa đã trao đổi thơ cho nhau. 

 かぐや姫が帝と和歌を交わす関係になってから三年の月日がたった頃、かぐや姫は月を見ては涙を流すようになりました。
 心配したおじいさんとおばあさんが、かぐや姫にたずねました。
「何がそんなに、悲しいのだね」
「心配事でもあるなら、わたしたちに話してごらん」
 しかしかぐや姫は何も言わず、光の玉のような涙をはらはらと流すばかりでした。

Ba năm trôi qua kể từ khi Công chúa Kaguya trao đổi thơ với Thiên Hoàng, công chúa cứ nhìn lên mặt trăng lại rơi nước mắt. Ông bà lão vô cùng lo lắng liền hỏi thăm:
" Có chuyện gì mà con lại buồn vậy? Nếu có chuyện gì lo lắng, hãy nói cho chúng ta"
Công chúa Kaguya không nói gì mà lại rơi nước mắt như những viên ngọc sáng lấp lánh.  

そんなある夜、かぐや姫はおじいさんとおばあさんに、泣いているわけを話しました。「お父さま、お母さま。実はわたくしは、人間の世界の者ではありません。わたくしは、あそこで光り輝く月の都の者です。今度の十五夜に月の都から迎えが来るので、わたくしは月の都に帰らなければなりません。それが悲しくて、泣いているのです」
「なんと! ・・・しかし大丈夫。かぐや姫はわしらの大切な娘じゃ。必ず守ってやるから」
 そこでおじいさんとおばあさんは帝にお願いをして、月の都から来る迎えを追い返す事にしたのです。

Có một buổi tối nọ, Công chúa Kaguya khóc và nói với ông bà lão:
" Bố, mẹ! Thực ra con không phải là người ở trần gian. Con là người ở trên cung trăng. Ngày 15 tháng này, từ trên cung trăng sẽ có người tới đón con trở về, Con phải quay trở về cung trăng. vì thế con rất buồn nên khóc"
" Chuyện này...Tuy nhiên, con yên tâm. Công chúa Kaguya là con gái vô cùng quan trọng với chúng ta vì vậy ta nhất định sẽ bảo vệ con"
Sau đó ông lão và bà lão đã cầu xin Thiên Hoàng giúp đỡ để đuổi  những người đến từ cung trăng về. 

 十五夜の夜、帝はかぐや姫を守るために、二千人の軍勢を送りました。
 二千人の軍勢は地上に千人、かぐや姫の屋敷の屋根に千人が並び、弓や槍をかまえて月の都から来る迎えを待ちました。
 やがて月が明るさを増し、空がま昼の様に明るくなりました。
 すると雲に乗った月の都の迎えたちが、ゆっくりとゆっくりとかぐや姫の屋敷へとやってきたのです。
「姫を守れ! あの者たちを追い返すのだ!」
 二千人の軍勢たちは弓や槍で月の都の迎えを追い返そうとしましたが、どうした事か軍勢の体が石の様に動かなくなってしまったのです。
 中には力をふり絞って弓矢を放った者もいましたが、弓矢は月の都の迎えに近づくと大きくそれてしまいます。
 月の都の迎えは屋敷の上空でとまると、おじいさんにこう言いました。

Tối ngày 15, để bảo vệ công chúa Kaguya, Thiên hoàng đã cho triệu tập một đội quân 2 nghìn người tới. Đội quân 2 nghìn người được chia thành một nghìn người bảo vệ dưới mắt đất, một nghìn người cung và giáo trong tư thế sắn sàng xếp hàng trên mái lâu đài của công chúa Kaguya chờ người đến từ cung trăng.
Chẳng mấy chốc, mặt trăng bỗng trở lên rực sáng, bầu trời sáng rực lên như ban ngày.Đoàn người đến từ cung trăng  bước ra từ đám mấy, từ từ, từ từ tiến đến cung của công chúa Kaguya.
" Bảo vệ công chúa!  Đuổi đoàn người đó đi"
Đội quân 2 nghìn người định dùng cung tên và giáo để đuổi người trên cung trăng nhưng không hiểu tại sao toàn thân thể lại cứng như đá không thể cử động được.
Trong đó những người bắn tên cũng dùng hết sức lực để bắn nhưng khi gần đến chỗ những người đến từ cung trăng thì mũi tên lại bị chệch hướng.
Đoàn người đến từ cung trăng đứng phía bên trên cung điện nói với ông lão: 

「竹取りのおきなよ。姫を迎えに来ました。さあ、姫をお渡しなさい」
 おじいさんとおばあさんは、かぐや姫の手を力一杯にぎりしめましたが、でもその手から力がすーっと抜けてしまいました。
 かぐや姫は静かに庭に出ると、いつの間にか美しい天女の羽衣を身にまとっていました。
「お父さま、お母さま、これでお別れでございます。これからは月を見るたびに、わたくしの事を思い出してください。そしてこれを、帝にお渡しください」
 そう言ってかぐや姫は、おじいさんとおばあさんに不老不死の薬と手紙を渡しました。

そしてかぐや姫は天女の羽衣で月の都のお迎えたちのところへ行くと、そのままお迎えたちと一緒にゆっくりと夜空へのぼって行き、月の光の中に消えてしまいました。

Ông lão Taketori no Okina, Chúng ta đến đón công chúa, hãy đưa công chúa ra đây"
Ông bà lão dùng toàn sức lực giữ chặt tay công chúa Kaguya nhưng công chúa lại buông tay. Công chúa Kaguya bình tĩnh bước ra sân, khoác lên mình bộ áo lông vũ của tiên nữ.
" Thưa bố mẹ, chúng ta chia tay nhau từ đây. Từ bây giờ, mỗi lần nhìn lên mặt trăng, xin hãy nhớ đến con và giúp con đưa vật này cho Thiên hoàng."
Công chúa Kaguya vừa nói, vừa đưa lại cho ông bà lão một viên thuốc trường sinh và mộ bức thư.
Sau đó công chúa Kaguya dùng áo lông vũ, đi về phía đoàn đến từ cung trăng và cứ thế cùng họ dần dần bay lên trời biến mất trong ánh sáng của mặt trăng. 

 それから数日後、かぐや姫の手紙と不老不死の薬を受け取った帝は手紙を読んでひどく悲しみ、何日も何日も何も食べませんでした。
やがて帝は、大臣たちを呼び寄せると、
「かぐや姫が帰って行った、天に一番近い山は何か?」と、たずねました。
そこで大臣たちが調べると、もっとも天に近い山は駿河の国にある山だとわかりました。「しかし、その山はあまりにも高く、なみの者が登れる山ではありません」
「そうか。では、士 ( つわもの)を集めて、これをその山の山頂で焼いてほしい」
そう言って帝は、かぐや姫からの手紙と不老不死の薬を壺に入れて大臣に渡しました。「よろしいのですか?」
たずねる大臣に、帝はこんな歌で答えました。
♪会う事も出来ず
♪こぼれる涙に、浮かんでいる様な我が身に
♪不死の薬が、何になろうか

Sau đó một vài ngày, Thiên hoàng nhận được bức thư và viên thuốc trường sinh của công chúa Kaguya và mở ra đọc thì vô cùng buồn bã không ăn uống nhiều ngày liền.
Cuối cùng, Thiên hoàng cho triệu tập các đại thần lại và hỏi:
" Công chúa Kaguya đã quay về trời, vậy ngọn núi nào gần trời nhất?"
Sau đó các đại thần bắt đầu tìm kiếm, và biết được có một ngọn núi gần trời nhất ở nước Suruga.
" Tuy nhiên, Ngọn núi này rất cao, chưa có ai leo được cả"
" Vậy à! Vậy thì hãy tập trung quân lính ta muốn đốt cháy thứ này trên đỉnh núi đó" Nói rồi, Thiên Hoàng liền đưa lại chiếc bình đựng bức thư và viên thuốc trường sinh của công chúa Kaguya cho các đại thần.
" Người có gì căn dặn?"
Thiên hoàng trả lời các đại thần bài hát như vậy:
" ta không thể gặp được nàng,
Nước mắt tuôn rơi, toàn thân như trôi nổi
Thuốc trường Sinh để làm gì đây" 

 かぐや姫を心から愛していた帝にとって、かぐや姫に会えずに長生きをしても、意味のない事だと歌っているのです。
「わかりました」
 大臣は帝から渡された壺を持つと、大勢の士たちを連れて日本一高い山に登りました。
 その事からその山は『士が富む山』として、『富士山』と名付けられたそうです。
 そして大臣が富士山の山頂で焼いた不老不死の薬が煙となって、かぐや姫のいる天へと昇っていきました。
 その一部の煙が富士山にあった雪に降りかかり、その雪が不死の雪(→万年雪)となって、 今でも富士山の頂上に残っていると言われています。

Đối với Thiên hoàng- người yêu công chúa Kaguya từ tận trái tim, việc không được gặp công chúa cho dù có trường thọ thì cũng không có ý nghĩa gì.
" Chúng thần đã hiểu"
Các đại thần nhận lấy chiếc bình từ thiên hoàng dẫn phần lớn binh lính leo lên ngọn núi cao nhất Nhật Bản.
Kể từ đó, Ngọn núi đó vì có rất nhiều binh sĩ leo lên  nên được đặt tên là núi Phú Sĩ.
Và các đại thần sau khi đốt thuốc trường sinh trên đỉnh núi, khói bốc cao lên trời nơi có công chúa Kaguya.
Người ta nói rằng, một phần khói khiến cho tuyết trên đỉnh núi rơi xuống và không bao giờ dừng lại. và vẫn còn cho tới tận bây giờ. 

おしまい

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top